BỘ LỌC TÌM KIẾM Click xem bộ lọc
Theo danh mục

CÁC BỆNH GIUN SÁN KÝ SINH TRÊN VỊT, NGAN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Ngày đăng: 26/12/2024

Bệnh giun sán ký sinh trên vịt, ngan thường mắc ở vật nuôi chăn thả hoặc bán chăn thả, gây thiệt hại không nhỏ cho người chăn nuôi. Bệnh làm giảm năng suất, chất lượng thịt và trứng của đàn vịt, ngan. Trong bài viết này, Fivevet cung cấp thông tin về một số bệnh giun sán ký sinh trên vịt, ngan và biện pháp phòng trị hiệu quả.
1. Bệnh giun sán ký sinh trên vịt, ngan
1.1. Bệnh giun đũa
a. Đặc điểm bệnh
Giun đũa có tên khoa học là Ascaridia galli thuộc ngành giun tròn Nemathelminthes, lớp Nematoda, họ Ascarid loài Ascaridia galli. Chúng có kích thước lớn, con đực 2 - 7cm, cuối đuôi có cánh đuôi với 10 đôi gai chồi, trước hậu môn có 1 vòi hút tròn, 2 gai giao hợp nhọn bằng nhau, con cái 3 - 11cm, lỗ sinh dục ở giữa thân, hậu môn ở cuối thân.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên, các trường hợp nặng thường gặp ở vịt, ngan chưa trưởng thành, đặc biệt là những con từ 1 đến 4 tháng tuổi, đang trong giai đoạn phát triển mạnh nhất. Mùa mắc bệnh quanh năm.
b. Truyền lây
Chủ yếu qua đường ăn uống. Giun cái đẻ 50.000 - 57.000 trứng theo phân ra ngoài, ở môi trường tự nhiên sau 5 - 25 ngày trong trứng đã hình thành ấu trùng cảm nhiễm. Vịt, ngan nuốt phải trứng cảm nhiễm, khi vào đến dạ dày chúng nở ra di chuyển xuống ruột non, sau 1 - 2 ngày chúng chui vào tuyến Lieberkühn để phát triển ở trong đó khoảng 19 ngày, rồi quay về lòng ruột, hoàn thành vòng đời 35 - 38 ngày. Tại ruột non, chúng sống 9 - 14 tháng để gây bệnh.
c. Triệu chứng bệnh
- Bệnh nhẹ: Các biểu hiện chung chung, không rõ ràng, vịt, ngan vẫn ăn tốt, nhưng gầy, xù lông, chậm lớn, đôi khi tiêu chảy.
- Bệnh nặng: Bao gồm chán ăn, thiếu máu, mào tích mỏ nhợt nhạt, niêm mạc nhợt nhạt, đi lại không vững, thường xuyên nằm, ít vận động, cánh rủ xuống và tiêu chảy. Xung quanh lỗ huyệt xuất hiện phân dính. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ra các triệu chứng thần kinh, liệt hoặc bán liệt chân, cánh. Ở vịt và ngan đẻ, sản lượng trứng giảm từ 10 - 20% mà không rõ nguyên nhân. Một số con có thể chết đột ngột hoặc do tắc ruột, thủng ruột.
d. Bệnh tích
Vịt, ngan bị gầy yếu, còi cọc và thiếu máu. Ruột non có nhiều giun đũa dài từ 2 - 7cm, thậm chí lên đến 11cm. Khi số lượng giun nhiều, có thể xuất hiện búi giun kèm theo viêm và xuất huyết ở ruột non.
1.2. Sán dây
a. Đặc điểm bệnh
Loại sán này dài từ 200 - 300mm, với đầu có gai rất nhỏ, 4 giác và mõm có 10 móc. Sán phát triển nhanh theo chiều rộng và tạo thành đầu gai giả, đồng thời đầu gai thật sẽ bị rụng. Thân sán không có sự phân đốt rõ rệt. Buồng trứng có dạng lưới, phân bổ dọc theo toàn bộ thân sán.
Vịt, ngan mắc sán dây sau khi nuốt phải loài cyclops diaptomus đã bị nhiễm màng vĩ ấu sán dây. Pimbriaria ở trong cơ thể cyclops (ký chủ trung gian) là 7 - 12 ngày, ở trong cơ thể vịt, ngan là 9 ngày.
Vịt, ngan con từ khi nở ra đến 2 - 3 tháng tuổi mắc sán dây rất nặng. Vịt, ngan mắc bệnh tiêu chảy, sán được thải ra ngoài từng đoạn theo phân. Vịt, ngan con có thể bị chết. Nơi có mầm bệnh lâu năm có thể thấy ở vịt, ngan mái đẻ 2 - 3 năm tuổi mắc bệnh này.
b. Triệu chứng
Vịt, ngan kém ăn, rối loạn tiêu hoá (khi tiêu chảy, khi táo bón), gầy yếu và suy nhược kéo dài, giảm tăng trọng và giảm sản lượng trứng rõ rệt. Mắt thường có thể nhận thấy trên bãi phân của vịt, ngan có những đoạn sán dây dài từ 3 - 5cm, màu trắng như que tăm. Hoặc khi vịt, ngan bơi dưới nước, có thể quan sát thấy đoạn sán dây thải ra ngoài và vẫn còn dính ở vùng hậu môn.
c. Bệnh tích
Niêm mạc ruột non, ruột già và manh tràng bị viêm và tụ huyết do sán bám vào và di chuyển trên niêm mạc, gây tổn thương. Trong một số trường hợp nhiễm sán dây với tỷ lệ và cường độ cao, vịt, ngan có thể bị tiêu chảy lỏng, thậm chí có máu do xuất huyết ở đường tiêu hóa. Khi mổ khám, sán dây có thể được phát hiện trong đường tiêu hóa.
1.3. Sán lá sinh sản
a. Đặc điểm bệnh
Bệnh sán lá sinh sản được phát hiện ở nước ta vào năm 1925 tại một số tỉnh phía Bắc. Bệnh phân bố ở nơi có nhiều ao, hồ, sông, suối, kênh, rạch, đầm ruộng. Ở mọi lứa tuổi vịt, ngan đều nhiễm sán. Các giống vịt, ngan chăn thả hoặc bán chăn thả thường hay mắc bệnh này. Bệnh do 2 loài sán lá thuộc giống Prosthogonimus gây ra là P.cuneatus và P.ovatus.
Vòng đời sán lá sinh sản ở vịt qua 2 vật chủ trung gian: Vật chủ trung gian thứ nhất là ốc nước ngọt ốc Bithynia siamensis, vật chủ trung gian thứ 2 là ấu trùng chuồn chuồn ngô (O. sabina, O. ferruginea, D. trivialis). Thời gian mầm bệnh phát triển ở ngoài môi trường là 10 - 16 ngày, ở vật chủ trung gian thứ nhất là 13 - 25 ngày, ở vật chủ trung gian thứ 2 là 6 - 8 ngày. Vịt, ngan bị bệnh sán lá sinh sản do ăn phải ấu trùng chuồn chuồn hoặc chuồn chuồn chứa nang kén sán. Thời gian mầm bệnh phát triển ở vịt, ngan từ 19 - 25 ngày.
b. Triệu chứng
Vịt, ngan gầy yếu, ủ rũ, vịt đẻ ra vỏ trứng mềm, dễ vỡ, sản lượng trứng giảm. Trường hợp nhiễm nhiều, vịt, ngan đẻ trứng không có vỏ vôi, đôi khi trứng chưa kịp đẻ đã bị vỡ nên chỉ thấy lòng trắng và lòng đỏ chảy ra ở lỗ huyệt.
Vịt, ngan ăn ít hoặc bỏ ăn, rụng lông, bụng to, đi đứng không thăng bằng, vào ổ nằm lâu nhưng không đẻ. Lỗ huyệt đôi khi chảy ra những dịch thể đặc, quánh có chất vôi, vật nuôi nằm một chổ, tiêu chảy, mép hậu môn đỏ đậm và chết.
c. Bệnh tích
Túi Fabricius của vịt, ngan con và vịt, ngan hậu bị bị viêm, sưng to, xuất hiện tình trạng sung huyết và xuất huyết. Niêm mạc dày lên, bên trong túi có sự xuất hiện của sán màu hồng đỏ (chiếm 100% tỷ lệ). Các cơ quan khác ít có sự thay đổi. Đối với vịt, ngan sinh sản, buồng trứng bị viêm, phúc mạc viêm và trong xoang bụng có dịch màu đỏ tích tụ (chiếm khoảng 13,3%).
Ống dẫn trứng có dấu hiệu viêm, sưng, sung huyết và xuất huyết. Niêm mạc dày, bên trong chứa nhiều dịch và cặn bã đặc màu trắng xám, có sán màu hồng đỏ (chiếm 91,6% ở vịt hậu bị và 100% ở vịt sinh sản). Các cơ quan khác không có biến đổi lớn.
2. Phòng bệnh giun sán trên vịt, ngan
- Chăm sóc nuôi dưỡng tốt đàn vịt, ngan, cung cấp đủ thức ăn, nước sạch sẽ trước khi thả ra. Tuân thủ quy trình phòng bệnh bằng vắc xin, dùng các vắc xin sau: Five-VGV, Five-DTV, Five-AI (H5N1, H5N6),…
- Vệ sinh phòng bệnh: dọn dẹp sạch sẽ bãi chăn thả vịt, ngan hàng ngày, rắc vôi bột diệt trứng giun hoặc dùng Five-Iodine và cloramin B 1,25% để diệt trứng sán.
- Định kỳ dùng một trong các thuốc sau tẩy giun sán cho vịt, ngan: Five-Alben.100 Oral, Five-Fenbenzol, Five-Levasol,…
3. Trị bệnh giun sán trên vịt, ngan
- Sử dụng một trong các thuốc sau: Five-Ivertin.100 Oral, Five-Fenbenzol, Five-Levasol,… với liều điều trị theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm.
- Sử dụng kháng sinh chống nhiễm khuẩn buồng trứng, ống dẫn trứng, túi fabricius như: Five-Ampicon, Five-AmoxClav, Five-Amoxcin super, TW5-Amox.600, Five-Oxytetra 50%, Five-Oxonic,… Kèm theo một trong các thuốc sau khôi phục niêm mạc ruột bị tổn thương: Five-Enzym, Five-Men sống, Five-Prozyme 5way, Five-Lacenzym (Cao tỏi),…
- Dùng thuốc bồi bổ cơ thể, nâng cao sức đề kháng: Five-Aci oil, Beta-Glucan.C, Five-Bcomplex, Five-Mix nhân sâm, Five-ADE plus, Five-ADE.Bcomplex oral, Five-Masol, Five-Aminovit super,… Kèm một trong các sản phẩm giải độc gan sau Five-Orgamin, Five-Bogama, Five-Giải độc gan, Five-Acemin.B12 Oral,
Vệ sinh sát trùng sạch sẽ bãi chăn, chăm sóc nuôi dưỡng tốt đàn vịt, ngan, tẩy giun sán định kỳ giúp bà con chăn nuôi thành công!
Xem thêm:
- Bệnh viêm gan vịt và giải pháp phòng bệnh
Tại sao đã dùng vắc xin mà gà vẫn mắc bệnh
Giải pháp nâng cao sức khỏe đường ruột cho gia cầm
Chia sẻ :
Ý KIẾN PHẢN HỒI

BÀI VIẾT LIÊN QUAN