BỘ LỌC TÌM KIẾM Click xem bộ lọc
Theo danh mục

VẮC XIN DỊCH TẢ LỢN VÀ HIỆU QUẢ PHÒNG BỆNH (VẮC XIN FIVE-CSF)

Ngày đăng: 26/09/2024

1. Giới thiệu chung về bệnh dịch tả lợn:
1.1 Dịch tả lợn và đặc trưng của vi rút dịch tả lợn: 

Bệnh tả lợn cổ điển là bệnh truyền nhiễm cấp tính ở lợn và lợn rừng được gây ra bởi một vi rút RNA, thuộc họ Flaviviridiae. Vi rút chia thành 3 kiểu gen chính genotypes 1, 2 và 3  và 14 kiểu gen phụ subgenotypes (E2): 1.1, 1.2, 1.3, 1.4 (gồm chủng nhược độc vắc xin MLV), subgenotype 2.1, 2.2, 2.3 phân lập từ 1980 tại châu Âu và subgenotype 3.1, 3.2, 3.3, 3.4  phân lập ở châu Á và Mỹ. Tuy nhiên khi phân biệt theo huyết thanh học có 01 serotype và có miễn dịch chéo cao giữa các genotype khác nhau, vi rút giống vi rút gây tiêu chảy ở bò (BVDV) và vi rút BDV cả về kháng nguyên và cấu trúc.
Cấu trúc vi rút: CSFV là một loại vi rút RNA chuỗi dương đơn có kích thước khoảng 12,5 kb, chứa bốn protein cấu trúc (C, Erns, E1 và E2) và tám protein phi cấu trúc (Npro, p7, NS2, NS3, NS4A, NS4B, NS5A và NS5B). Protein có cấu trúc bao gồm Glycoprotein Erns, E2, E1 nằm ở vỏ ngoài của vi rút và có chức năng quan trọng trong vệc lây nhiễm. Protein Erns và E2 được biết là tạo ra các kháng thể trung hòa vi rút mà cung cấp khả năng miễn dịch bảo vệ trong vật chủ tự nhiên.
Độc lực: phân theo mức độ độc lực có độc lực thấp, độc lực cao và độc lực trung bình. Các mức độ độc lực khác nhau đã được ghi nhận từ quá cấp tính, cấp tính, mãn tính. Độc lực của chủng phân lập có thể gây ra các dấu hiệu khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi, giống, tình trạng sức khoẻ và tình trạng miễn dịch của lợn được tiêm phòng. Heo con phát triển các dấu hiệu lâm sàng rõ ràng hơn lợn trưởng thành. Lợn nái mang thai vi rút có thể đi qua nhau thai của lợn nái mang thai và lây nhiễm sang bào thai trong suốt thời kỳ mang thai các giai đoạn của thai kỳ. Tùy thuộc vào độc lực của chủng và thời gian mang thai, nhiễm trùng có thể dẫn đến sảy thai và thai chết lưu trong thời kỳ đầu mang thai, khi có thể dẫn đến heo con sinh ra có vi rút trong máu dai dẳng nếu nhiễm trùng xảy ra trong vòng 50-70 ngày mang thai. Lợn con sinh ra từ heo mẹ nhiễm bị suy nhược hoặc xuất hiện run bẩm sinh. Quá trình lây nhiễm này được báo cáo là “CSF khởi phát muộn”.
1.2 Dịch tễ học bệnh
Động vật mẫn cảm:

Lợn nhà và lợn rừng không có kháng thể bảo vệ hoặc lượng kháng thể thấp.
Nguồn lây nhiễm
Số lượng lợn rừng bị bệnh dịch tả lợn cổ điển có thể đóng vai trò là ổ chứa vi rút và gây nguy cơ thường trực cho lợn nhà gần 60% các đợt bùng phát CSF chính ở Đức từ năm 1993 đến năm 1998 có liên quan đến lợn rừng bị nhiễm bệnh. Mối liên kết này đặc biệt quan trọng đối với các trang trại có mức độ an toàn sinh học thấp hoặc các vấn đề về quản lý an toàn sinh học.
Lợn nái mang trùng có thể truyền qua nhau thai sang lợn con dẫn đến hiện tượng nhiễm bệnh dai dẳng ở heo con sau sinh. Lợn con nhiễm bệnh bẩm sinh thải ra vi rút trong vài tháng là ổ chứa vi rút.
Lợn nhiễm chủng độc lực thấp và trung bình: trong những thập kỷ qua, độc lực giảm dần đã được quan sát thấy đối với các chủng CSFV liên quan đến nhiều đợt bùng phát dịch bệnh ở lợn rừng và lợn nhà. Ở châu Âu, chủng kiểu gen 2.3 phổ biến nhất cho thấy độc lực vừa phải với biểu hiện lâm sàng phụ thuộc nhiều vào độ tuổi và biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu ở động vật già cũng là yếu tố duy trì dai dẳng mầm bệnh.
>>> Xem: Dấu hiệu nhận biết và cách xử lý khi lợn mắc dịch tả
Cách thức truyền lây: 
Vi rút tả lợn cổ điển có thể lây truyền theo cả chiều ngang và chiều dọc.
Sự lây truyền ngang xảy ra thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp giữa lợn bị nhiễm bệnh và lợn mẫn cảm. Các con đường gián tiếp quan trọng bao gồm việc ăn rác/cặn bẩn bị nhiễm vi rút và lây truyền cơ học qua tiếp xúc với con người hoặc thiết bị nông nghiệp và thú y. Sự lây truyền bằng khí dung có thể đóng một vai trò trong việc lây truyền trong đàn. Khi tiếp xúc, nhiễm trùng thường xảy ra qua đường miệng hoặc ít gặp hơn qua kết mạc, màng nhầy, vết trầy xước trên da, thụ tinh và sử dụng dụng cụ bị ô nhiễm. Lợn bị nhiễm bệnh có nồng độ vi rút trong máu cao và thải vi rút ít nhất từ ​​khi bắt đầu mắc bệnh lâm sàng cho đến khi chết hoặc phát triển kháng thể đặc hiệu. Các đường bài tiết chính là qua nước bọt, dịch tiết nước mắt, nước tiểu, phân và tinh dịch.
Sự lây truyền dọc từ lợn nái mang thai sang bào thai có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn mang thai và có thể dẫn đến sẩy thai, đẻ non hay chết lưu, hoặc đẻ ra lợn con nhiễm vi rút máu và không tạo được kháng thể dẫn đến nhiễm bệnh dai dẳng.