Đối với các loài cá nói chung thì các thành phần Protein, Glucid, Lipid, Vitamin, Khoáng là các thành phần thần thiết yếu, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của cá, làm giảm tốc độ sinh trưởng, đồng thời làm giảm khả năng miễn dịch khiến cá dễ bệnh hơn. Hãy cùng
Fivevet tìm hiều về những bệnh dinh dưỡng này.
Bình thường cá bổ sung các thành phần dinh dưỡng thông qua thức ăn tổng hợp được cho ăn, còn bổ sung thêm bằng nguồn thức ăn tự nhiên. Khi các thành phần này phong phú, cung cấp đủ yêu cầu của cá giúp quá trình trao đổi chất của cá diễn ra thuận lợi, cá sinh trưởng và phát triển nhanh.
Khi các thành phần này không được bổ sung đầy đủ, thức ăn tổng hợp kém chất lượng, môi trường ao nuôi không cung cấp đủ thức ăn tự nhiên (môi trường ao kém hoặc do mật độ nuôi dày) sẽ dẫn đến các dấu hiệu bệnh lý:
- Rối loạn trao đổi chất, quá trình tiêu hóa trở nên không bình thường.
- Phá hủy chức năng hoạt động của hệ thống thần kinh và các cơ quan liên quan.
- Gây viêm loét đường ruột, dẫn đến gan thận, lá lách của cá cũng chịu ảnh hưởng xấu.
- Cơ thể bị dị hình, cong thân, quẹo đuôi, nắp mang lõm hoặc khuyết thiếu, tia vây dị hình.
- Gầy yếu, sức đề kháng giảm sút dẫn đến dễ nhiễm bệnh.
1. Bệnh thiếu Protein và Acid Amin:
Protein là thành phần quan trọng để cá sinh trưởng và phát triển. Protein có cấu trúc hóa học dạng chuỗi polypeptide được tạo nên bởi sự liên kết của các acid amin hay amino acid, hay nói cách khác thì protein chính là các các acid amin. Trong tự nhiên có khoảng 500 loại acid amin nhưng để cấu tạo nên protein trong sinh vật chỉ có khoảng 22 loại, vì vậy, ngoài việc cấu tạo nên protein thì các acid amin còn tồn tại dưới dạng đơn chất và đảm nhận nhiều vai trò khác. Việc bổ sung đầy đủ protein nói chung và acid amin nói riêng là việc không thể thiếu trong nuôi trồng thủy sản, giúp cá sinh trưởng và phát triển khỏe mạnh, đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng.

Hàm lượng protein ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trọng của cá. Hàm lượng protein trên 40% được cho là giúp cá có tốc độ tăng trọng tốt nhất, hàm lượng càng giảm thì tốc độ lớn càng giảm. Ở hàm lượng 25% tốc độ tăng trọng chỉ bằng 12,8% so với cá dùng thức ăn có hàm lượng 40%. Nếu thức ăn dưới 10% thì cá dừng phát triển. Tuy nhiên, cá bổ sung protein bằng cả thức ăn tự nhiên, nên thông thường các loại cám trên thị trường hiện tại đa số dùng hàm lượng protein khoảng 25-35%.
Trong thức ăn của cá nếu acid amin không cân bằng, hàm lượng protein quá cao có thể gây lãng phí, ô nhiễm ao nuôi và gây tác hại xấu tới cơ thể cá. Ví dụ ở lươn, khi hàm lượng protein vượt 44,5%, tốc độ tăng trưởng và phát triển không đổi và protein bắt đầu có dấu hiệu gây tác hại ngược lại cho cá.
Các sản phẩm thuốc cung cấp acid amin: Five-Aminovit Super.
2. Bệnh liên quan đến thiếu Đường - Glucid
Đường (glucid) là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho các hoạt động hàng ngày của cơ thể cá. Một gram đường trong cơ thể cá có thể cung cấp 4000 calo năng lượng. Theo thống kê, sự phân giải đường trong thức ăn cung cấp khoảng 50% nguồn năng lượng cho hoạt động sống của cá. Ngoài ra, khi đường đầy đủ, sự phân giải mỡ trong cơ thể và lượng protein cần thiết cũng giảm đi. Đường còn là thành phần chính của cấu trúc tế bào.
Khi thiếu đường, hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể cá bị đình trệ. Ngược lại, dư thừa đường cũng gây nên những dấu hiệu bệnh lý cho cá, thường là tích lũy mỡ quá nhiều dẫn đến các cơ quan nội tạng như gan thận bị rối loạn hoạt động.
3. Bệnh liên quan đến chất béo - Lipid
Mỡ (Lipid) là nguồn vật chất chủ yếu dự trữ năng lượng cho cơ thể cá. Mỡ bảo vệ và cố định các cơ quan nội tạng trong cơ thể cá. Mỡ hòa tan các vitamin trong cơ thể, đồng thời chuyển hóa muối và các acid trong túi mật. Một số acid béo làm tăng sức đề kháng cho cơ thể cá, giúp máu hoạt động bình thường. Thức ăn bổ sung hàm lượng lipid thích hợp giúp cá sinh trưởng nhanh. Ngược lại, nếu hàm lượng lipid quá thấp sẽ khiến cá sinh trưởng chậm, vây bị đứt.
Mỗi loài có một nhu cầu riêng về hàm lượng lipid nhưng tựu chung hàm lượng lipid trong thức ăn không nên vượt quá 15%. Bình thường thức ăn công nghiệp cho cá thường có hàm lượng lipid khoảng 7,5%.
Thành phần mỡ quá cao sẽ cản trở quá trình tích lũy đạm, giảm chất lượng thịt cá, cá sinh trưởng chậm, một số cơ quan nội tạng bị thoái hóa. Ngoài ra, mỡ dễ bị oxy hóa nên dễ sinh ra các sản phẩm độc hại đối với cơ thể cá nên cần lưu ý hiện tượng này trên thức ăn.
4. Bệnh thiếu muối vô cơ và các nguyên tố vi lượng:
Các nguyên tố vi lượng mà cơ thể cá cần: Ca, P, K, Na, Mg, Fe, Co, Cu, Mn, Zn,…. Chúng là các thành phần quan trọng cấu tạo nên cơ thể cá và là chất xúc tác của hệ men, duy trì sinh lý trên nhiều lĩnh vực của cơ thể, góp phần đẩy nhanh tốc độ sinh trưởng, đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, tăng khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng, giúp giảm hệ số thức ăn, duy trì áp suất thẩm thấu của tế bào.
Cá có thể hấp thu các thành phần này ở trong môi trường nước, nhưng nguồn này có hạn chế, vì vậy cần bổ sung từ thức ăn và các sản phẩm thuốc hỗ trợ bổ sung muối vô cơ và khoáng vi lượng, tránh tình trạng cá bị thiếu:
- Ca: Có sẵn trong nước nhiều, không bổ sung cá vẫn sinh trưởng tốt.
- P: Cần bổ sung khoảng 0,4% trong thành phần thức ăn cá, thiếu P sẽ khiến cá chuyển hóa thức ăn kém, gây dư thừa thức ăn dẫn đến ô nhiễm ao nuôi, đồng thời cá cũng sinh trưởng chậm, xương có nguy cơ bị dị hình.
- Mg: Thức ăn thiếu Mg khiến cá chép bơi lội yếu, sinh trưởng chậm, lượng Mg trong xương giảm, nếu không bổ sung kịp thời cá sẽ chết.
- Fe: Thiếu Fe sẽ khiến cá chép bị thiếu máu, cá hồi dễ bị bệnh u tuyến giáp trạng.
- Cu: Quá thiếu dẫn đến cá chép con sinh trưởng chậm, quá cao lại gây thiếu máu và ức chế sinh trưởng.
- Mn: Quá thiếu khiến cá chép sinh trưởng chậm, đuôi dị hình, cá hồi sẽ bị rút ngắn cơ thể.
5. Bệnh thiếu các loại Vitamin:
Vitamin là nhóm chất thiết yếu, không thể thiếu của cho cá. Theo nghiên cứu, không bổ sung vitamin vào thức ăn và thức ăn hoàn toàn không có protein thì sau 1 tháng cá dừng sinh trưởng, sau 3 tháng cá sẽ chết. Cụ thể:
- Thiếu Vitamin A: Khả năng bắt mồi giảm, rối loạn trao đổi chất, mất sắc tố. Trên cá chép có thể bị chảy máu ở da và mang, nắp mang phồng, mắt lồi.
- Thiếu Vitamin D: Giảm tốc độ sinh trưởng và phát triển, tuyến sinh dục thành thục muộn hơn.
- Thiếu Vitamin C: Giảm tốc độ lớn, hệ số thức ăn tăng cao, có hiện tượng xuất huyết từng vùng, cá bị dị hình.
- Thiếu Vitamin B1, B2: Cường độ bắt mồi giảm, sinh trưởng chậm, mất khả năng vận động.
- Thiếu Vitamin B6: Cá sinh trưởng chậm, hệ thần kinh bị rối loạn, thiếu máu, hô hấp nhanh, xương nắp mang mềm, bụng tích nước.